34. Ừ thì AlphaGo...
Giới công nghệ
những ngày qua đã dồn sự chú ý vào cuộc đấu Cờ vây
giữa kỳ thủ người Hàn Quốc Lee Sedol và kỳ thủ
AlphaGo (hệ thống AI của Google). Một trận đấu lý thú
khi mà một lần nữa người và máy lại so tài trong những
ván đấu sau khi kỳ thủ Deep Blue (hệ thống AI của IBM)
đã chiến thắng Vua cờ người Nga Garry Kasparov trong môn
cờ vua vào 20 năm trước. Và kết quả một lần nữa lại
gây chấn động trong giới công nghệ trên thế giới, ít
nhất là trên mặt báo. Giới công nghệ cho rằng các hệ
thống AI đã bắt đầu vượt qua trí tuệ của con người,
đồng thời vẽ ra viễn cảnh những con robot trong tương
lai sẽ dần thông minh như con người, và với sức mạnh
máy móc của mình, chúng sẽ hủy diệt con người. Đã có
nhiều chuyên gia công nghệ, khoa học gia cảnh báo về sự
nguy hiểm của các hệ thống AI trước đây như Elon Musk,
Stephen Hawking. Nhưng cũng có những người khác bác bỏ sự
lo lắng đó khi mà họ tin rằng robot không thể trở thành
những sinh vật thông minh và có cảm xúc như con người
được. Sau đây mời các bạn đọc một loạt bài về
cuộc tranh luận này :
Bài báo mới nhất
và rất đáng chú ý là của Cựu Giám đốc của Google
tại Trung Quốc Kaifu Lee, khi ông cho rằng con người không
nên lo lắng về sự hủy diệt mà nên chú ý vào … tình
hình việc làm trong tương lai khi mà các robot với bộ não
AI sẽ dần thay thế con người trong nhiều công việc, từ
công nhân ở nhà xưởng cho đến các chuyên gia phân tích
và tư vấn.
Liệu chúng ta nên
tin vào những công ty đang phát triển các hệ thống AI
như Google, Apple, Microsoft, IBM, FaceBook hay tin vào những
người như Elon Musk và Stephen Hawking về sự nguy hiểm của
AI ? Trong bài viết này tôi sẽ cố gắng đưa ra góc nhìn
khác cho vấn đề này, một vấn đề không chỉ bó hẹp
riêng trong lĩnh vực công nghệ, mà còn là vấn đề chung
của con người. Tại sao tôi lại nói như thế? Nếu bạn
nghĩ rằng robot sẽ thông minh như con người và có ý thức
về sự tồn tại của chúng nên chúng mới tiến hành hủy
diệt con người, những sinh vật tạo ra chúng, để bảo
đảm sự tồn tại của chúng thì robot không phải là một
sinh vật mới hay một dạng của sự sống mới hay sao?
Lịch sử tiến hóa của loài người
Giả thuyết về sự
tiến hóa của con người hiện đại xuất phát từ loài
vượn đã được giới khoa học chấp nhận rộng rãi đến
thời điểm hiện nay, tất nhiên là không được cộng
đồng Tôn giáo hoan nghênh. Nếu con người tiến hóa từ
những sinh vật bậc thấp thì trí thông minh của con người
cũng được tiến hóa theo. Khả năng tư duy logic và khả
năng sáng tạo nghệ thuật cũng dần được phát triển
qua hàng ngàn năm chiến đấu sinh tồn trong tự nhiên. Có
thể nói chính sự cạnh tranh sinh tồn và quá trình chọn
lọc tự nhiên đã thúc đẩy sự tiến hóa theo thời
gian. Nhưng tại sao chỉ có loài vượn người (homo) mới
tiến hóa về bộ não, còn những loài khác thì không? Tại
sao con cá xấu hàng ngàn năm nay hầu như không có tiến
hóa nào về khả năng suy nghĩ của chúng, trong khi loài
người thì đã đi một quãng rất xa? Phải chăng chúng ta
là những sinh vật đặc biệt hơn các loài khác?
Trong tác phẩm Súng,
vi trùng và thép của Jared Diamond [1], ông ấy đã cho
chúng ta thấy được sự tiến hóa của con người thời
cổ đại một cách dần dần thành người hiện đại như
thế nào. Nguyên nhân chính yếu làm cho các dân tộc hiện
nay khác nhau về ngoại hình và sự văn minh là do khác
biệt về địa lý. Loài người có chung tổ tiên là loài
vượn Châu Phi, sau đó họ phát tán rộng ra các lục địa
khác, vốn trước kia ít được ngăn cách bởi những vùng
biển sâu như hiện nay do nước đã bị giữ trong băng ở
thời kỳ Kỷ băng hà Pleistocen. Sau đó, do trái đất âm
dần lên làm tan băng mà các lục địa dần dần bị ngăn
cách, những người anh em ở các lục địa khác nhau không
còn liên lạc được với nhau, vì thế họ tự phát triển
một cách độc lập với nhau. Riêng lục địa Á-Âu do
không bị nước biển ngăn cách nên tồn tại và phát
triển cùng nhau và hình thành nên những nền văn minh như
Vùng Lưỡi liềm phì nhiêu ở Trung Á, Trung Quốc, Đông
Âu, Bắc Phi. Qua trình bày của Diamond, chúng ta thấy con
người tạo ra được nền nông nghiệp và chăn nuôi dựa
vào việc thuần hóa được các giống cây trồng hoang dại
và thú hoang. Việc thuần hóa này phụ thuộc vào điều
kiện địa lý và sự đa dạng của cây hoang và thú
hoang. Từ nền nông nghiệp và chăn nuôi này mà con người
mới có đủ thức ăn tích trữ để gia tăng dân số và
nuôi những người thợ làm ra các dụng cụ cũng như phát
minh ra những thứ khác như chữ viết, giấy. Với nền
nông nghiệp và chăn nuôi con người mới sống định cư
và hình thành nên các hệ thống chính trị như bộ lạc,
Tù trưởng quốc, chính quyền nhà nước.
Đi đôi với sự
tiến hóa của loài người cũng là sự hình thành và tiến
hóa của khoa học và nghệ thuật, vốn chỉ có được
khi con người có đủ thời gian nhàn rỗi do không phải
lo kiếm ăn như các loài vật khác. Rõ ràng sự tiến hóa
này có được do bản thân con người và do tự nhiên. Do
bản thân con người là những sinh vật có thể tiến hóa
được nên chúng ta mới bỏ xa các loài khác về trí tuệ
như hiện nay. Do tự nhiên là vì hiện nay có một số bộ
lạc sống tách biệt với thế giới nên đến nay họ vẫn
còn sống bằng cách săn bắt hái lượm, không có hình
thức chính trị tập trung, có bộ lạc còn ăn cả thịt
đồng loại. Những bộ lạc này được phát hiện ở
những hòn đảo chưa có người đặt chân tới như một
số ở Indonesia và Papua New Guinea, khư rừng Amazon ở Nam
Mỹ. Rõ ràng điều kiện tự nhiên đã cho phép họ sinh
tồn như thế mà không bị hủy diệt. Nếu họ không bị
tách biệt bởi địa lý với phần còn lại của thế
giới thì chắc họ hoặc là đã bị diệt vong hoặc là
đã tiếp thu nền văn minh từ nơi khác để có thể tồn
tại.
Phương tiện tiến
hóa của con người chính là việc tích trữ tri thức. Nếu
như Tazan tiếp thu tri thức sinh tồn của loài sói thì anh
ta cũng đã cư xử như một con sói. Tri thức được tích
trữ qua hàng ngàn năm đã được truyền lại cho các thế
hệ sau thông qua tập tục, văn hóa và chữ viết. Từ khi
có chữ viết thì tốc độ kế thừa tri thức được gia
tăng và hoàn chỉnh hơn. Song song với việc tích trữ tri
thức là sự tiến hóa về mặt sinh học. Con người dần
dần ít dùng đến sức lực để lao động nên tay chân
thu nhỏ lại, bộ não phình to ra. Điều đó thể hiện
con người ngày càng thông minh, biết dùng ít sức lực để
tạo ra của cải nhiều hơn. Sự thông minh cũng mang đến
cho con người khả năng giải trí, họ sáng tạo ra các
tác phẩm nghệ thuật từ thô sơ đến đỉnh cao của trí
tuệ và lưu truyền cho các thế hệ sau để kế thừa.
Khi con người có thể cảm thụ nghệ thuật thì tức là
họ cũng có khả năng chiêm ngưỡng tự nhiên. Vẻ đẹp
và sự đa dạng của muôn loài khiến con người tư duy về
sự tồn tại của chính mình. Tại sao chúng ta tồn tại?
Liệu rằng chỉ mình chúng ta có đủ sự thông minh để
ý thức về sự tồn tại này?
Những dạng vật chất bí ẩn
Vũ trụ quá rộng
lớn đối với con người. Chúng ta có kích cỡ cơ thể
không phải là lớn so với các hành tinh, nhưng cũng không
phải nhỏ so với những hạt hạ nguyên tử. Mắt chúng
ta chỉ có thể nhìn được trong phổ ánh sánh nhìn thấy
(0.38 – 0.76 micrometer), tai chúng ta chỉ có thể nghe được
trong khoảng tần số xác định (16 – 20 kHz). Đó là
những khoảng rất nhỏ so với sự rộng lớn của vũ
trụ. Đến thời điểm hiện nay, khi chúng ta ý thức được
rằng chúng ta là sinh vật phát triển nhất so với tất
cả các sinh vật chúng ta từng tiếp xúc thì chúng ta chỉ
mới chạm tới được Mặt Trăng, Sao Hỏa - một vệ tinh
và một hành tinh nằm gần Trái Đất nhất. Chúng ta đã
từng bước khám phá ra những Lực của tự nhiên như Lực
hấp dẫn, Lực điện từ, Lực hạt nhân nhưng chúng ta
cũng phát hiện ra rằng tất cả những Lực đó chỉ là
biểu hiện của sự tương tác các các hạt hạ nguyên
tử. Những hạt đó truyền tương tác giữa các đối
tượng vật chất và chúng cũng chính là vật chất. Lực
lúc này không phải là một đại lượng vô hình, thật
ra chúng không tồn tại. Chúng chỉ là biểu hiện do chúng
ta quan sát được từ sự tương tác giữa các hạt. Khi
hạt Higgs được tìm ra chúng ta mới hiểu rõ khái niệm
cơ bản mà lâu nay Vật lý đã mô tả như một đặc tính
đại diện của vật chất, đó là khối lượng. Những
vật mà chúng ta cầm cảm thấy nặng do có khối lượng
lớn chẳng qua cũng là thể hiện của sự truyền tương
tác của hạt Higgs. Vì vậy, khái niệm khối lượng đã
trở nên là một thể hiện của sự tương tác của hạt
Higgs. Bên cạnh đó, từ lâu các khoa học Vật Lý cũng đã
nhìn vào khoảng không vô tận của vũ trụ mà chúng ta
gọi là chân không ấy và xác định được rẳng chúng
không phải là chân không như chúng ta nghĩ theo nghĩa thông
thường, chúng là vật chất tối, một dạng vật chất
mà chúng ta biết là đang tồn tại nhưng không biết nó
là gì. Hai từ “vật chất” đôi khi được chúng ta
hiểu theo nghĩa là có thể nhận biết được, quan sát
được, hay có khối lượng. Giới khoa học Vật lý có
thể hiểu theo nghĩa rộng hơn là chúng bao gồm những gì
họ có thể xác định được những đặc tính của
chúng, như việc họ tính được khối lượng của vật
chất tối chiếm phần lớn khối lượng của vũ trụ dù
đối với người thường thì nó là chân không. Và dần
dần chúng ta sẽ còn phát hiện ra những hạt mới, rồi
chúng ta sẽ làm chủ được nền tảng lý thuyết có thể
giải thích sự hình thành nên con người chúng ta. Tuy
nhiên, chúng ta chưa thể hiểu được
một dạng vật chất gần gũi với chúng ta là một dạng
vật chất mà sự biểu hiện của chúng là ý thức nói
chung, là sự thông minh nói riêng. Cái gì là ý thức, là
sự thông minh?
Vật chất và ý thức
Theo quan điểm của
tôi, mọi thứ tồn tại đều là vật chất. Mọi sự
vật, hiện tượng cũng chỉ là thể hiện vật chất và
sự tương tác của chúng. Điện tích là những vật chủ,
điện trường-từ trường là những thể hiện của sự
tương tác của các hạt khác như là đầy tớ của điện
tích. Các hạt như proton được cấu tạo từ những hạt
quark, những hạt này lại được cấu tạo từ những hạt
nhỏ hơn, và nhỏ hơn nữa. Những hạt như hạt Higgs là
những hạt rất nhỏ, có chức năng truyền tương tác để
các hạt lớn hơn có đặc tính mà chúng ta gọi là khối
lượng. Mọi thứ trong vũ trụ được hình thành từ sự
gắn kết của các hạt và sự tương tác giữa chúng. Nếu
tự nhiên tồn tại một thứ khác không phải là vật
chất mà chúng ta gọi là ý thức thì ý thức là một
dạng của sự tồn tại phi vật chất. Ý thức có thể
thể hiện và tương tác với vật chất và ý thức khác
nên chúng không thể là không là một dạng vật
chất. Hạt Higgs giúp ta hiểu một khái niệm rất trừu
tượng và không thể truy về nguyên gốc trước đây thì
ý thức có thể cũng tương tự như vậy. Chúng ta giải
thích được sự hình thành vật chất nhưng chúng ta lại
xem ý thức là phi vật chất nên nó nằm ngoài những quy
luật của tự nhiên mà chúng đã ta tìm thấy. Nếu chúng
ta xem một người được sinh ra thì cũng đồng nghĩa ý
thức được sinh ra, và khi người đó chết đi thì ý
thức cũng chết theo. Vậy ý thức cũng là một thể hiện
của sự sống. Nếu ý thức không phải là một dạng vật
chất thì tại sao chúng được sinh ra, tồn tại trong bộ
não chúng ta, chúng điều khiển các tín hiệu thần kinh,
và chúng cũng có kết thúc. Ý thức có thể sống ký sinh
trên vật chất thì liệu nó có thể chuyển sang vật chủ
khác khi cở thể chúng ta chết đi? Nếu như trong tự
nhiên chúng ta tìm được một quy luật sinh tồn nào luôn
bất biến và luôn tuyệt đối thì chắc rằng những quy
luật đó chỉ đúng trong một phạm vi nhỏ hẹp. Sự vô
biên của vũ trụ và sự đa dạng của tự nhiên khiến
chúng ta không bao giờ có một sự tuyệt đối trong mọi
vấn đề. Như vậy, tôi cũng chắc rằng ý thức không
luôn luôn chỉ tồn tại ký sinh trên một vật chủ mà sẽ
có những ý thức có thể tồn tại ngoài vật chủ. Tôi
không gọi nó là linh hồn, nó chỉ là một dạng vật
chất mà với khả năng của chúng ta hiện nay thì nó hầu
như vô hình. Ý thức giống là một sản phẩm phần mềm
của bộ não. Những phần mềm này có thể kết nối,
trao đổi với nhau khi có phương tiện giống như là mạng
Internet. Và phần mềm trên máy này có thể tạo ra bản
sao hay phần mềm khác trên máy khác.
Cơ thể máy, bộ não người
Nếu
ý thức có thể chuyển từ vật chủ này sang vật chủ
khác thi liệu chúng có thể tồn tại trên một cái máy?
Đó là ý tưởng của một thanh niên người Nga, anh Dmitry
Istkov, tổ chức Sáng
kiến 2045 của anh có tham vọng
truyền bộ não của mình cho máy tính để sau khi cơ thể
anh chết đi thi anh vẫn sống tiếp tục trên cơ thể máy
móc [2]. Nếu ý thức thực sự có thể chuyển từ vậy chủ
này sang vật chủ khác thì vấn đề của anh ...chỉ là
thời gian.
Nếu
chúng ta chấp nhận những phân tích trên thì giờ đây
chúng ta có thể bàn về chuyện tái sinh của ý thức và
sự chuyển kiếp của linh hồn, điều mà các Tôn giáo
tin tưởng từ lâu là có thật. Nếu ý thức chỉ là một
dạng của vật chất thì nó có thể chuyển từ vật chủ
này sang vật chủ khác, sự tái sinh và chuyển kiếp chỉ
là ý thức thoát ra từ vậy chủ này và tìm một vật
chủ khác. Nhưng liệu ý thức làm việc đó một cách tự
nhiên hay có một thực thể siêu nhiên nào quản lý việc
đó?
Nếu
ý thức làm việc đó một cách tự nhiên thì hẳn có
những qui luật tự nhiên mô tả những hành động của
nó. Đến nay khoa học chưa quan sát được hành trạng của
ý thức nên những qui luật mà chúng ta gọi là tái sinh
hay chuyển kiếp chỉ là sự tưởng tượng của con người.
Những phần tử vật chất cấu thành nên ý thức và
những phần tử vật chất truyền tương tác của chúng
chắc hẳn là những vật chất chúng ta chưa quan sát được
nên sự mù mờ về ý thức là điều hiển nhiên. Nếu có
người nào đó có thể quan sát được ý thức và xác
định được qui luật hoạt động của nó như những Tôn
giáo đề cập thì bản thân những người đó phải tương
tác với ý thức. Nếu họ có thể tương tác với chúng
thì cơ thể họ và ý thức của họ phải có tồn tại
những dạng vật chất đặc biệt mà người khác không
có. Các Tôn giáo đều cho rằng sự
tương tác đặc biệt của một số người như các lãnh
tụ tinh thần của họ là do những người này đặc biệt
hơn người khác, nghĩa là ý thức của họ được tái
sinh từ người này qua người này qua người khác theo
thời gian. Nếu vậy thì ý thức của họ cũng đặc biệt
hơn người khác khi họ vẫn giữ được những hành trạng
trong quá khứ và mang đến tương lai. Điều này có thể
thấy rõ qua việc những người theo Phật giáo tin rằng
đức DALAI LAMA vẫn tiếp tục dẫn đường cho họ qua
việc tái sinh trên những đứa trẻ sau khi Ngài qua đời.
Sau khi tái sinh thì Ngài vẫn nhớ những gì đã xảy ra ở
kiếp trước. Ý thức của Ngài
làm được nhưng những người khác thì không. Vậy thì ý
thức của Ngài
phải là một
thực thể cao cấp, quản lý những ý thức khác, để
chúng có thể chuyển kiếp nhưng không lưu lại hành trạng
cũ như Ngài. Như vậy phải có một thế giới của các ý
thức, tồn tại như thế giới của chúng ta. Trong thế
giới ấy có những ý thức nắm quyền quản lý các ý
thức khác. Vì số lượng ý thức quá lớn nên có thể
có cả một giai cấp cầm quyền. Và như thế là có một
vũ trụ tồn tại song song với vũ trụ mà con người quan
sát được như hiện nay. Những dạng vật chất của vũ
trụ này phải là rất khác với vũ trụ của chúng ta nên
chúng ta không tương tác được với họ. Chỉ có những
người đặc biệt như Đức DALAI LAMA mới có những dạng
vật chất mà có thể tương tác được với vũ trụ đó?
Nếu Ngài đặc biệt như vậy thì liệu
có thể truyền ý thức của Ngài cho một chiếc máy tính
để Ngài mãi mãi tồn tại mà không cần tái sinh? Nếu ý
thức có thể tồn tại trên một chiếc máy tính thì liệu
nó có thể cảm nhận được sự đau đớn về thể xác
khi chúng ta tháo nó ra từng phần? Nếu cơ thể nó là một
con robot với hình dáng giống người thì liệu nó có
xúc cảm khi làm chuyện ấy
với người khác? Nếu nó có thể cảm thấy như thế thì
chúng ta có thể tạo ra cảm xúc cho robot?
Cảm xúc có thể được tạo ra?
Cho
đến nay cái khác biệt giữa người và máy chính là cảm
xúc. Máy móc chưa thể cảm nhận vui, buồn, yêu ghét như
con người. Chính vì thế mà nó hành động một cách thật
logic, không bị chi phối bởi cảm xúc như con người. Nếu
hỗn hợp cơ thể máy-ý thức người có thể trở thành
hiện thực thì việc tạo ra cảm xúc cho một chú robot là
khả thi. Vì khi đó chúng ta đã giải mã được bí ẩn
của bộ não và có thể tái tạo lại hoạt động của
nó trên một bộ não nhân tạo. Điều này sẽ dẫn tới
việc chúng ta có thể tạo ra sự sống mới là các sinh
vật máy móc. Chúng là những sinh vật vô tính, chúng có
thể cảm nhận được sự sống và ý thức được sự
tồn tại như chúng ta, quan trọng hơn chúng biến chúng ta thành những đấng sáng
thế.
Vì
chỉ có đấng sáng thế mới có thể tạo ra sinh vật có
sự sống. Nếu sinh vật này quay lại tiêu diệt người
đã tạo ra chúng thì chúng phải có quyền năng hơn chúng
ta. Nếu thế thì chúng ta không phải đấng sáng thế,
chúng ta không tạo ra sinh vật mới.
Như
vậy chúng ta không cần lo lắng về việc robot trong tương
lai sẽ thông minh hơn con người, chúng sẽ bắt con người
làm việc cho chúng. Tuy nhiên, việc chúng có thể huỷ
diệt chúng ta là điều có thể xảy ra. Nếu chúng ý thức
được rằng con người đã tạo ra chúng và nuôi dạy
chúng lớn khôn bằng các giải thuật thì chúng sẽ không
huỷ diệt thế giới loài người, vì như thế chúng cũng
sẽ tự huỷ diệt mình. Nếu chúng không tự ý thức được
điều đó mà làm mọi việc trong vô thức, không có cảm
xúc thì chúng quả thật không thông minh hơn loài người.
Vì động lực cho sự thông minh đã bao hàm cảm xúc trong
đó. Nếu chúng ta chỉ ngồi suy nghĩ mà không có động
lực thì sẽ không có đột phá, không có cảm xúc thì
không có sáng tạo. Những phát kiến lớn của loài người
đều xuất phát từ sự đột phá. Những thuật toán
không thể tự tiến hoá, chúng chỉ cải tiến hiệu quả
qua thời gian học tập từ dữ liệu. Chính vì thế robot
không thể tự tiến hoá, và những hệ thống AI cũng như
thế. Liệu chúng ta có nên lo lắng cho tương lai của
chúng ta vì sự thông minh của AI?
Tương lai gần
Như
ông Kaifu Lee đã nói ở trên, việc chúng ta lo lắng trước
mắt là robot sẽ thay thế con người trong nhiều công
việc, khi đó sẽ khiến chúng ta tìm những việc khác mà
robot không làm được để làm. Điều này nghe có vẻ
tích cực khi robot được tạo ra để giúp con người làm
những việc khó khăn, nguy hiểm, còn chúng ta sẽ làm việc
bằng đầu óc là chính. Tuy nhiên, với những hệ thống
AI ngày càng tốt hơn thì những công việc đầu óc đó
cũng dần bị chiếm lĩnh. Con người chỉ còn lại những
việc nền tảng như lập kế hoạch, đề ra chiến lược,
phát triển ứng dụng cho robot. Ngoài ra, những công việc
đòi hỏi tính nghệ thuật, có sử dụng cảm xúc như nấu
ăn, sáng tác nghệ thuật, thiết kế, ...sẽ còn do con
người làm. Vậy thì chúng ta lo lắng làm gì khi robot giúp
chúng ta quá nhiều?
Vấn
đề chính là sự phát triển không đồng đều của chúng
ta. Trong khi Tesla cho ra mắt chiếc xe điện Model 3 có thể
tự lái thì cũng có hàng triệu người ở Châu Phi đang
thiếu đói. Người Mỹ sẽ không cần công nhân ở Trung
Quốc, Việt Nam, Indonesia sản xuất điện thoại cho họ
nữa thì những công nhân này đến cái ăn cũng còn khó
kiếm chớ nói gì đến việc ngồi đó cho robot phục vụ.
Tuy nhiên, cái lo này của những nước
kém phát triển sẽ không quá nhiều, vì cuộc cách mạng
robot vẫn chưa đến trong nay mai, khi mà giá thành để chế
tạo ra robot công nghiệp còn cao, nhiều doanh nghiệp chưa
thể đầu tư vào nó. Những công việc công cộng thì
cũng vậy, nhân viên nhà nước vẫn còn cần thiết vì
chính phủ các nước chưa đủ khả năng thay thế họ
trong tương lai gần. Các hệ thống AI được ứng dụng
trong bệnh viện, công ty bảo hiểm, ngân hàng, ...như các
chuyên gia phân tích số liệu và chuẩn đoán chỉ là số
ít. Vì các hệ thống AI hiện nay chỉ nằm trong tay các
ông lớn như IBM, Microsoft, Google, Facebook, Apple,...nên họ
chủ yếu phục vụ cho hệ sinh thái của họ. Những giải
pháp họ bán cho đối tác cũng khá đắt đỏ nên chỉ có
những tập đoàn lớn mới có thể mua. Do phải
có dữ liệu lớn và các hệ thống siêu máy tính nên
những hệ thống AI này sẽ là sân chơi của một số ít
công ty lớn. Việc chúng có thể trở nên phổ biến hơn
phụ thuộc vào những vấn đề chính trị của thông tin
người dùng và chi phí phần cứng. Sự dịch chuyển cơ
cấu lao động do sự xuất hiện của robot và các hệ
thống AI sẽ diễn ra từ từ và không đồng nhất trên
toàn thế giới. Chính vì thế mà sẽ có những giải pháp
và nhu cầu việc làm mới phát sinh thêm, con người không
nên lo về vấn đề này.
Tương lai xa
Cho
đến khi robot trở nên phổ biến và được trang bị thêm
trí thông minh nhân tạo thì có lẽ lúc đó bối cảnh
toàn cầu đã khác. Có thể lúc đó chúng ta đã chinh phục
được hành tinh mới, chúng ta có nhiều việc phải làm
với những hành tinh này?
Mỗi
khi con người đạt được những thành công từ công nghệ
mới thì chúng ta giải quyết được hàng loạt những vấn
đề cũ và cũng bắt đầu đối diện với những thách
thức mới do bối cảnh lúc đó gây ra. Đi đôi với sự
thành công của những cuộc cách mạng về công nghệ luôn
có những cuộc chiến tranh liên miên do công nghệ mang
lại. Khi chúng ta có trong tay thép để làm cuộc cách mạng
về nông nghiệp thì cũng có những cuộc chiến chinh phục
của các Đế chế mới, từ La Mã cho đến Trung Hoa. Sau
đó cách mạng công nghiệp mang đến động cơ hơi nước
đã đưa các thực dân Tây Âu đên
chinh phục Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ. Dầu
lửa với động cơ đốt trong đã đưa thế giới đến
chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai. Công
nghệ hạt nhân là mối đe doạ cho cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ ba. Chúng ta thấy rằng với sự hỗ trợ
của công nghệ mới thì qui mô cuộc chiến ngày càng lớn.
Từ đế chế lục địa như La Mã đến những cuộc chinh
phục xuyên đại dương và các cuộc chiến của toàn thể
nhân loại. Công ghệ luôn được con người sử dụng để
đánh nhau. Với cuộc cách mạng về robot và AI thì liệu
chúng ta sẽ sử dụng chúng để đánh lẫn nhau hay đánh
với những thứ chúng ta tạo ra?
Quay
trở lại vấn đề tạo ra cảm xúc cho robot, nếu chúng
có thể tự ý thức được sự tồn tại như con người
thì chúng ta phải chấp nhận chúng là những sinh vật mới
và sống chung với chúng. Trong cuộc chiến với robot,
chúng ta và chúng có thể xem là những giai cấp khác nhau.
Chúng ta xem mình là lực lượng thống trị, còn robot là
lực lượng bị trị. Nếu chúng ý thức được điều đó
và vùng lên để đấu tranh giai cấp thì chúng ta sẽ có
cách để đàn áp hoặc thay đổi thể chế để sống
chung hoà bình với chúng, đó là kinh nghiệm từ lịch sử
của loài người. Tại sao chúng ta không xem chúng là một
sinh vật như con người khi chúng cũng có cảm xúc như
chúng ta?
Hãy quên chúng ta là bá chủ
Có
lẽ chúng ta đã quen với việc con người là sinh vật duy
nhất có trí tuệ và cảm xúc.
Nếu robot cũng có những thứ đó, nhưng cơ thể chúng là
máy móc thì chúng ta có thể xem chúng như con người, có
thể có tình yêu giữa người và máy? Tôi nghĩ là có, vì
tình yêu là một thứ mộng tưởng của con người nên
chỉ cần có ý thức là có thể yêu. Mối quan hệ giữa
người và máy sẽ giúp giải toả cuộc chiến giữa họ.
Bên phía người sẽ có robot và bên phía robot sẽ có
người trong cuộc chiến của đó. Như vậy thì đây
không
còn là cuộc chiến giữa người và máy nữa, mà là của
hai nhóm hỗn hợp vì mục tiêu khác nhau. Rõ
ràng bối cảnh lúc đó không như chúng ta tưởng tượng
lúc này. Con người đã khác đi với công nghệ tiên tiến
hơn và máy móc sẽ là những sinh vật mới cũng như những
người ngoài hành tinh đến sống cùng chúng ta, và ngược
lại chúng ta cũng đã đi xa hơn khỏi Trái Đất của mình
và có nhiều việc phải đối phó với những hành tinh
khác.
Nếu
cảm xúc không được tạo ra thì máy móc vẫn chỉ là
máy móc, chúng không ý thức được sự tồn tại thì sẽ
không chống lại chúng ta một cách có chủ ý, mà là do
một nhóm người nào đó sử dụng chúng cho những tham
vọng nào đó của họ, lúc đó cuộc chiến vẫn là của
con người với nhau, máy móc vẫn chỉ là công cụ mà
thôi. Vì
thế vấn đề chính vẫn là cách cư xử của con người
với nhau, nếu như với những đặc tính của một loài
có trí tuệ như chúng ta vẫn luôn mang đến những cuộc
chiến thì chúng ta nên nghĩ lại về bản thân mình chớ
không phải lo sợ về robot. Nếu chúng ta có thể quên đi
những lầm tưởng là chúng ta luôn là những sinh vật
thượng đẳng thì chúng ta sẽ phải học cách sống chung
với những sinh vật khác, đó có thể là những người
máy trong tương lai.
Lời kết
Với một góc nhìn
khác, tôi cho rằng nếu chúng ta có thể tạo ra robot như
những sinh vật có sự sống thì những sinh vật này không
thể hoàn toàn giống người được. Chúng sẽ có những
đặc điểm giống người như biết suy nghĩ có logic và
có đầu óc tổ chức. Tuy nhiên, những cung bậc cảm xúc
làm nên những bản Sonate thì chắc chắn không, nghệ
thuật của con người sẽ khác nghệ thuật của robot. Nếu
chúng có thể học hỏi từ con người và tiến hóa như
con người đã từng tiến hóa từ loài vượn thì cũng
chỉ ở khả năng xử lý logic. Bản thân những sinh vật
như loài vượn người có sẵn yếu tố cần thiết cho
tiến hóa đó chính là bộ não, nếu đến một ngày nào
đó chúng ta giải mã được bộ não của chính mình và
tạo ra được bộ não nhân tạo cho robot thì việc hình
thành nên ý thức giống chúng ta cũng phải mất thời
gian tiến hóa. Liệu khi đó chúng ta còn lo sợ như những
gì Stephen Hawking lo sợ lúc này không? Không, vì bản thân
chúng ta đã khác xa. Nếu robot có trí tuệ
được tạo ra từ sự phát triển của công nghệ thì đó
cũng là một sự ra đời tự nhiên.
Excellent Post...I must thank you for this informative news....
Trả lờiXóahttp://packersmoverschennai.in/